Những đứa con của nửa đêm
Phan_13
Và giờ cô sắp thấy bực bội hơn; vì rằng, rứt ra khỏi những sự kiện ở Điền trang Methwold theo một vòng xoắn ốc bay vút lên cao - khỏi cá vàng và chó và thi trẻ sơ sinh và ngôi giữa, khỏi ngón cái và mái ngói - tôi đang bay ngang thành phố tươi tắn và sạch sẽ sau những cơn mưa; bỏ Ahmed và Amina lại với những bài hát của Wee Willie Winkie, tôi bay về Thành Cổ, qua Đài phun nước Flora, đến một tòa nhà lớn chìm trong ánh sáng mờ đục của đèn vải thô và mùi thơm của những lư hương đung đưa... bởi vì ở đây, tại Nhà thờ Thánh Thomas, Cô Mary Pereira đang tìm hiểu về màu sắc của Chúa.
“Xanh,” vị linh mục trẻ thành kính nói. “Mọi bằng chứng hiện có, con ta, đều cho thấy Đức Christ Jecsus là sắc pha lê mỹ lệ nhất của màu trời xanh nhạt.”
Người phụ nữ nhỏ bé phía sau ô cửa sổ gỗ mắt cáo của phòng xưng tội lặng đi trong giây lát. Sự im lặng của băn khoăn, ngẫm nghĩ. Rồi: “Nhưng sao lại thế, thưa Cha? Con người đâu có xanh. Cả thế gian rộng lớn này đâu có ai màu xanh!”
Sự ngỡ ngàng của người phụ nữ nhỏ bé, gặp phải sự bối rối nơi vị linh mục... bởi cô không được chờ đợi sẽ phản ứng như thế. Đức Giám mục đã dặn, “Thắc mắc của người vừa cải đạo... khi hỏi về màu sắc hầu như lúc nào họ cũng... quan trọng là phải tạo ra cầu nối, con ạ. Hãy nhớ,” Đức Giám mục tiếp tục, “Chúa tức là tình yêu; mà Krishna, thần ái tình của đạo Hindu, luôn được vẽ với làn da xanh. Bảo họ là xanh; nó sẽ như một cây cầu nối hai đức tin; một cách khéo léo, con hiểu chứ; mà hơn nữa xanh là một màu trung tính, tránh được những rắc rối thường gặp về màu sắc, tránh cho con khỏi chuyện da đen da trắng: phải, nói chung ta chắc chắn đó là câu trả lời đúng.” Cả Đức Giám mục cũng có thể sai, đức cha trẻ tuổi tự nhủ, nhưng lúc này cha đang lâm vào thế bí, bởi người phụ nữ nhỏ bé rõ ràng đã mất bình tĩnh, và bắt đầu thốt ra một lời quở trách nghiêm khắc qua khung cửa gỗ: “Câu trả lời gì mà lại là xanh, thưa Cha, sao lại tin vào một thứ như thế? Cha nên viết cho Đức Thánh Cha Giáo hoàng ở Rome, người nhất định sẽ chấn chỉnh cha; nhưng chẳng cần phải là Giáo hoàng mới biết con người không đời nào có màu xanh!” Vị linh mục trẻ tuổi nhắm mắt lại; thở sâu; phản kích. “Họ nhuộm da xanh,” ông ngập ngừng. “Người Pict; dân du mục Ả Rập da xanh: nếu được học hành thì con sẽ thấy, con ạ...” Nhưng giờ một cái khịt mũi quyết liệt vang lên trong phòng xưng tội. “Sao, thưa Cha? Cha đem Chúa ra so sánh với những kẻ man di mọi rợ? Lạy Chúa, con đến phải bịt tai lại vì hổ thẹn!”… Và còn nhiều, nhiều nữa, trong khi vị linh mục trẻ đang bị cái dạ dày hành hạ khốn khổ đột nhiên nảy ra phán đoán rằng còn gì đó nghiêm trọng hơn ẩn sau câu chuyện da xanh này, và lên tiếng hỏi; vậy là bài phê bình nhường chỗ cho nước mắt, còn vị linh mục trẻ hốt hoảng nói, “Nào, nào, chắc chắn Hào quang Thần thánh của Đức Chúa không chỉ thuần túy xuất phát từ màu da”... Và một giọng nói giữa dòng lũ nước mặn: “Vâng, thưa Cha, nói cho cùng cha cũng không qụá tệ; con cũng bảo anh ấy thế, chính xác chỉ có vậy thôi, nhưng anh ấy văng tục loạn lên và không thèm nghe...” Thế đấy, anh ấy đã bước vào câu chuyện, và giờ tất cả tung tóe ra, và Cô Mary Pereira, nhỏ bé đồng trinh bấn loạn, thực hiện lời thú tội sẽ mang đến cho chúng ta manh mối quan trọng về động cơ của cô khi, vào cái đêm tôi chào đời, cô thực hiện đóng góp sau cùng và quan trọng nhất đối với toàn thể lịch sử Ấn Độ thế kỷ 20 kể từ thời ông tôi vập mũi cho đến thời tôi trưởng thành.
Lời thú tội của Mary Pereira: như mọi nàng Mary,;cô có Joseph của mình. Joseph D’Costa, một hộ lý ở phòng khám trên đường Pedder tên là Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar (“À há!” Padma cuối cùng đã thấy sự liên hệ), nơi cô làm bà đỡ. Ban đầu mọi chuyện rất tốt đẹp; gã đưa cô đi uống trà hay lassi hay falooda và nói ngon nói ngọt với cô. Gã có cặp mắt như hai mũi khoan đường, cứng và kêu lọc cọc, song gã ăn nói dịu dàng dễ nghe. Mary, nhỏ nhắn, tròn trịa, đồng trinh, ngất ngây trước sự quan tâm của gã; nhưng giờ mọi chuyện đã thay đổi.
“Thình lình thình lình anh ấy cứ khịt mũi ngửi không khí liên tục. Một cách buồn cười lắm, mũi hếch lên. Con hỏi, 'Anh bị cảm hay sao, Joe?’ Nhưng anh ấy bảo không; không, anh ấy đáp, anh đang ngửi gió Bắc. Nhưng con bảo, Joe, ở Bombay gió thổi từ biển vào, từ hướng Tây cơ mà, Joe...” Bằng giọng chực vỡ òa, Mary Pereira thuật lại cơn thịnh nộ sau đó của Jospeh D’Costa, gã bảo, “Cô chả hiểu gì hết, Mary, bây giở gió thổi từ phương Bắc, và nó sặc mùi chết chóc. Nền độc lập này chỉ dành cho bọn nhà giàu; người nghèo đang buộc phải giết lẫn nhau như ruồi. Ở Punjab,vở Bengal. Bạo loạn bạo loạn, dân nghèo giết dân nghèo. Nó ở trong gió ấy.”
Và Mary: “Anh nói gì điên khùng thế, Joe, sao anh lại nghĩ đến những chuyện tồi tệ ấy? Ta vẫn có thể sống yên bình kia mà?”
“Thôi bỏ đi, cô chả hiểu gì hết.”
“Nhưng Joseph, cho dù chuyện giết chóc ấy có thật, họ là người Hindu và đạo Hồi thôi mà; sao lại kéo ngựời Thiên Chúa tử tế vào cuộc chiến ấy? Đám người kia họ chém giết nhau từ đời nảo đời nào.”
“Cô với lão Christ của cô. Chẳng lẽ cô không nhồi nổi vào đầu cái sự thật đó là tôn giáo của dân da trắng à? Thần da trắng để cho dân da trắng. Ngay lúc này dân mình đang chết. Chứng ta phải đánh trả; phải chỉ cho họ thấy đâu là kẻ thù thực sự, cô hiểu chưa?”
Và Mary, “Thế nên con mới hỏi về màu sắc, thưa Cha... và con khuyên Joseph, con khuyên, khuyên mãi, đánh nhau là xấu, bỏ những ý nghĩ điên rồ ấy đi; nhưng rồi anh ấy không nói chuyện với con nữa, và bắt đầu giao du với những kẻ dữ dằn, và họ bắt đầu đồn đại về anh ấy, thưa Cha, rằng họ chính mắt thấy anh ấy ném gạch vào xe tải, rồi đốt chai xăng nữa, anh ấy phát điên rồi, thưa Cha, họ bảo anh ấy giúp đốt xe buýt và đánh bom tàu điện, và gì nữa con không biết. Không biết làm sao, thưa Cha, con kể hết cho em gái. Em gái con Alice, một cô gái tốt lắm, thưa Cha. Con nói: ‘Anh Joe, anh ấy ở gần lò mổ, biết đâu cái mùi ấy đã xông lên mũi và làm anh ấy lú lẫn.’ Thế là Alice đến tìm anh ấy, ‘Em sẽ nói giúp chị,’ con bé nói; nhưng rồi, Chúa ơi điều gì đang xảy ra với thế giới này... con thú thật với Cha... Ôi baba...” Và cơn lũ đang nhấn chìm lời cô, những bí mật đang rỉ ra mặn chát từ mắt cô, bởi Alice trở về bảo rằng theo ý mình Mary mới là người đáng trách, vì đã giảng đạo với Joseph đến khi gã chán ngấy cô, trong khi đáng ra phải ủng hộ cái sự nghiệp ái quốc thức tỉnh người dân của gã. Alice trẻ hơn Mary; và xinh xắn hơn; và sau đó còn có thêm những tin đổn, chuyện Alice-và-Joseph, và Mary đâm ra quẫn trí.
“Con bé ấy,” Mary nói, “Nó thì biết gì ba thứ chính trị chính em này? Nhưng để quắp được Joseph của con nó sẽ nhại lại bất cứ điều nhăng nhít gì anh ấy nói, y như một con chim mynah ngu ngốc. Con thề, thưa Cha...”
“Cẩn thận, con ta. Con đang rất gần sự báng bổ đấy...”
“Không, thưa Cha, con thề có Chúa, con không biết có gì là mình sẽ không làm để giành lại anh ấy. Phải: bất chấp... mặc cho những gì anh ta... trời-ơi-trời-ơiiii!”
Nước mắt ướt đẫm sàn phòng xưng tội... và giờ, phải chăng đã xuất hiện một mâu thuẫn mới nơi vị linh mục trẻ? Có phải cha, bất chấp những cơn quằn quại của cái dạ dày bất ổn, đang cân nhắc trên chiếc cân vô hình sự thiêng liêng của nghi lễ xưng tội và mối đe dọa đối với xã hội văn minh của một kẻ như Joseph D’Costa? Có phải cha sẽ, trên thực tế, hỏi Mary địa chỉ Joseph của cô, để rồi tiết lộ... Tóm lại, liệu đức cha trẻ tuổi dạ dày đảo lộn, bị giám mục ám ảnh này đã hành xử giống, hay không giống, Montgomery Clift trong Tôi thú tội? (Xem nó mấy năm trước tại rạp Đế chế Mới, tôi không chắc lắm.) - Nhưng không; một lần nữa, tôi phải bóp nghẹt những nghi ngờ vô căn cứ của mình. Điều đã xảy ra với Joseph có lẽ kiểu gì cũng sẽ xảy ra. Và trong mọi tình huống, mối liên quan duy nhất của vị linh mục trẻ với lịch sử của tôi là việc ông là người ngoài cuộc đầu tiên nghe nói về lòng căm thù người giàu dễ lây của Joseph D’Costa, và nỗi khổ đau vật vã của Mary Pereira.
Ngày mai tôi sẽ tắm gội cạo râu; tôi sẽ mặc một chiếc kurta mới, bóng loáng và hồ cứng, thêm quần pajama cho đủ bộ. Tôi sẽ đi đôi dép sáng như gương, mũi cong vút, tóc chải gọn gàng (mặc dù không rẽ ngôi giữa), răng trắng bóc... tóm lại, tôi sẽ bảnh bao hết cỡ. (“Ơn Chúa” từ Padma đang bĩu môi.)
Ngày mai, cuối cùng, đã đến lúc kết thúc những câu chuyện mà tôi (không có mặt khi chúng ra đời) phải lôi ra từ chốn sâu kín quay cuồng trong đầu óc mình; vì tiếng nhạc cầm nhịp từ cuốn lịch đếm ngược của Mountbatten không thể bị phớt lờ lâu hơn nữa. Tại Điền trang Methwold, lão Musa vẫn tích tắc như một trái bom hẹn giờ; nhưng chẳng ai nghe thấy, vì lúc này một tiếng động khác đang trỗi dậy, vang rền, giục giã; tiếng từng giây trôi qua, tiếng cái nửa đêm định mệnh đang tới gần.
Chương 8: Tích, tắc
Padma có thể nghe thấy nó: không gì dồn nén sự hồi hộp như đếm ngược. Tôi quan sát đóa hoa-phân của tôi làm việc hôm nay, quấy những vại rau quả dầm như một cơn lốc, như thể làm thế sẽ khiến thời gian trôi nhanh hơn. (Mà có lẽ là có; thời gian, theo kinh nghiệm của tôi, cũng biến thiên và bất ổn như nguồn điện của Bombay. Nếu quý vị không tin, cứ gọi cho dịch vụ báo giờ tự động thì biết - gắn với lưới điện, nó thường bị sai vài tiếng. Trừ phi kẻ sai là chính chúng ta... không dân tộc nào có từ chỉ “hôm qua” và “ngày mai” là một lại được coi là nắm chắc về thời gian cả[1])
[1] Trong tiếng Hindi, chữ kai trong mệnh đề thì tương lai nghĩa là “ngày mai,” nhưng trong mệnh đề thì quá khứ lại có nghĩa là “hôm qua.”
Nhưng hôm nay, Padma nghe thấy tiếng tích tắc của Mountbatten... Do Anh sản xuất, nó đập với sự chính xác lạnh lùng. Và giờ nhà máy đã trống không; hơi còn lởn vởn, nhưng những vại rau quả dầm đã lặng; và tôi đã giữ lời. Ăn vận chỉn chu, tôi chào đón Padma khi cô xô đến bàn tôi, ngồi phệt xuống sàn cạnh tôi, ra lệnh: “Bắt đầu.” Tôi nở một nụ cười thỏa mãn; cảm thấy đàn con của nửa đêm xếp hàng trong đầu mình, chen lấn xô đẩy như mấy mụ dân chài Koli; tôi bảo tụi nó đợi, không lâu nữa đâu; tôi hắng giọng, khẽ lắc cây bút một cái; rồi bắt đầu.
Ba mươi hai năm trước thời điểm chuyển giao quyền lực, ông tôi vập mũi vào mặt đất Kashmir. Hồng ngọc và kim cương xuất hiện. Và có lớp băng của tương lai, chực chờ dưới làn nước. Và có một lời thề: không cúi đầu trước thần hay người. Lời thề ấy tạo ra một lỗ hổng, tạm thời được lấp đầy bởi một người đàn bà sau một tấm ga khoét lỗ. Một lão lái đò từng tiên đoán về những vương triều nấp trong mũi ông tôi giận dữ chở ông qua một hồ nước. Có những lão chúa đất mù và những nữ đô vật. Và một tấm ga trong một gian phòng tăm tối. Ngày hôm đó, di sản của tôi bắt đầu hình thành - màu xanh của bầu trời Kashmir - nhỏ vào mắt ông tôi; sức chịu đựng của cụ bà tôi rồi sẽ biến thành tính nhẫn nại của chính mẹ tôi và sự sắt đá sau này của Naseem Aziz; năng lực trò chuyện với chim của cụ ông tôi rồi sẽ thèo dòng huyết thống quanh co di truyền vào mạch máu của con Khỉ Đồng em tôi; xung đột giữa chủ nghĩa hoài nghi rằng ông ngoại và tính cả tin đằng bà ngoại; và trên hết là bản chất ma quái của tấm ga giường khoét lỗ, đã định cho mẹ tôi phải học yêu một người đàn ông theo từng mảnh, và kết án tôi phải nhìn cuộc đời mình - ý nghĩa của nó, cấu trúc của nó - cũng theo từng mảng một; thế nên khi tôi hiểu được nó, thì đã là quá muộn.
Năm tháng tích tắc trôi đi - và di sản của tôi lớn dần, bởi giờ đây tôi có túi răng vàng huyền thoại của lão lái đò Tai, và chai rượu của lão báo hiệu về những tửu tinh của cha tôi; tôi có Ilse Lubin cho chuyện tự tử và rắn ngâm rượu cho chuyện bổ dương; tôi có Tai-ủng-hộ-sự-không-thay-đổi đối nghịch với Aadam-cổ-xúy-tiến-bộ; rồi, còn nữa tôi có mùi hôi của lão lái đò không tắm đã đuổi ông bà tôi xuôi Nam, và khiến Bombay trở thành điều có thể.
... Và giờ, bị Padma và tiếng tích tắc thôi thúc, tôi tiếp tục, thu thập Mahatma Gandhi và phong trào hartal của ông, tiêu hóa ngón-cái-và-ngón-trỏ, nuốt trọn thời khắc Aadam Aziz không biết mình là người Kashmir hay Ấn Độ; giờ tôi đang uống Mercurochrome và nhuộm hình những bàn tay sẽ tái hiện trong bãi nước trầu lênh láng, và tôi đang nốc cạn Dyer, bộ ria và các thứ; ông tôi được cái mũi cứu sống và một vết bầm xuất hiện trên ngực ông, vĩnh viễn không tan biến, nhờ vậy ông và tôi tìm thấy trong cơn nhức nhối bất tận của nó câu trả lời cho câu hỏi kia, Ấn Độ hay Kashmir? Bị nhuộm màu bởi vết bầm của một chiếc khóa cặp Heidelberg, chúng tôi quyết định chung số phận với Ấn Độ; nhưng sự xa lạ của cặp mắt xanh vẫn còn đó. Tai chết, song ma thuật của lão vẫn đeo đuổi chúng tôi, biến chúng tối thành tách biệt.
... Chạy hộc tốc, tôi dừng lại để nhặt trò phụt-ống-nhổ. Năm năm trước ngày một quốc gia ra đời, di sản của tôi lại lớn lên, để bao gồm một dịch bệnh lạc quan sẽ bùng phát lần nữa vào thời của tôi, và những vệt nứt trên mặt đất rồi-sẽ-đã-được tái sinh dưới da tôi, và con Chim ngân nga cựu ảo thuật gia người đã khởi đầu một hàng dài các nghệ sĩ xiếc rong vẫn luôn song hành với cuộc đời tôi, và cặp nốt ruồi như núm vú phù thủy và sự thù ghét ảnh chụp và câu cáigìkhôngbiết của bà tôi, và những cuộc chiến của chết đói và im lặng, và sự thông thái của bác Alia tôi sẽ biến thành kiếp gái già và nỗi cay đắng để rồi cuối cùng bùng nổ trong một đòn báo thù chết chóc, và tình yêu của Emerald và Zulfikar rồi sẽ cho phép tôi bắt đầu một cuộc cách mạng, và những lưỡi dao cong, những vầng trăng sát nhân được lặp lại trong cái tên mẹ “gọi yêu” tôi, chand-ka-tukra thơ ngây cùa bà, mảnh tr... yêu dấu của bà... giờ đây, đang lớn dần, bồng bềnh trong bể nước ối của quá khứ, tôi được nuôi lớn bởi một tiếng ngân vút lên caomãicaomãi cho đến khi đàn chó tới cứu viện, bởi một cuộc đào tẩu vào ruộng ngô và sự giải cứu xuất phát từ Rashid, cậu trai kéo xe với trò khỉ Gai Wallah khi cậu chạy - HẾT TỐC LỰC! - và hét lên trong im lặng, khi cậu tiết lộ bí mật của những ổ khóa Ấn Độ và đưa Nadir Khan vào một buồng vệ sinh có chứa cái tủ giặt; phải, tôi đang nặng lên theo từng giây, béo ra nhờ tủ giặt và tình yêu dưới-tấm-thảm của Mumtaz và gã thi sĩ không vần, phính lên khi nuốt giấc mơ của Zulfikar về chiếc bồn tắm đặt cạnh giường và một lăng Taj Mahal trong lòng đất và cái ống nhổ bằng bạc khảm thanh kim thạch; một cuộc hôn nhân tan rã, và nuôi lớn tôi; một bà dì phản bội chạy giữa phố phường Agra, bỏ quên lòng tự trọng, và nó cũng nuôi lớn tôi; giờ đây những khởi đầu hụt đã chấm dứt, và Amina đã thôi không là Mumtaz, còn Ahmed Sinai đã trở thành, theo một nghĩa nào đó, cha cô và đồng thời là chồng cô... di sản của tôi gồm cả năng khiếu này, cái năng khiếu tự tạo ra cha mẹ mới cho mình mỗi khi cần thiết. Cái quyền năng cho ra đời những ông bố và bà mẹ: cái điều Ahmed muốn nhưng không bao giờ có được.
Qua dây nhau của mình, tôi hấp thu những kẻ lậu vé và sự nguy hiểm của việc mua quạt lông công; sự cần mẫn của Amina rỉ vào tôi, và những thứ đáng ngại hơn - tiếng bước chân lộp cộp, nhu cầu của mẹ tôi phải nài tiền cho tới khi cái khăn ăn trong lòng cha tôi bắt đầu run rẩy và dựng lên một túp lều nhỏ - rồi tro hỏa táng của những chiếc Arjuna Indiabike, rồi cái hộp vạn hoa mà Lifafa Das cố nhét mọi thứ trên đời vào, rồi bè lũ bất lương thực hiện hành vi phá hoại; những quái vật nhiều đầu căng phình trong tôi - những quỷ vương Ravana đeo mặt nạ, những con bé tám tuổi có tật nói ngọng và một hàng lông mày liền, những đám đông gào thét Kẻ hiếp dâm. Những lời tuyên bố công khai đang nuôi dưỡng tôi lớn dần đến thời khắc của mình, và chỉ còn bảy tháng nữa thôi.
Biết bao nhiêu sự vật con người ý tưởng chúng ta mang theo vào thế giới này, bao nhiêu khả năng và cả sự giới hạn của khả năng! - Bởi hết thảy những điều này đều là cha mẹ của đứa trẻ ra đời nửa đêm hôm đó, và với mỗi một đứa trẻ nửa đêm là lại thêm ngần ấy nữa. Trong số cha mẹ của nửa đêm: thất bại của kế hoạch của Phái đoàn Nội các; quyết tâm của M.A. Jinnah, kẻ sắp chết và muốn thấy Pakistan ra đời khi ông ta còn sống, và sẽ làm bất kỳ việc gì để đảm bảo điều đó - chính tay Jinnah mà cha tôi, rẽ nhầm như thường lệ, từng từ chối gặp; rồi Mountbatten với sự hối hả bất thường và bà vợ khoái ức gà; rồi còn nhiều, nhiều nữa - Thành Đỏ và Thành Cổ, khỉ và kền kền đánh rơi những bàn tay, rồi những gã lại cái da trắng, rồi thầy lang bó xương và người luyện chồn và Shri Ramram Seth người tiên đoán quá nhiều. Và giấc mơ sắp xếp lại kinh Quran của cha tôi cũng có chỗ của mình; rồi vụ đốt godown đi biến ông thành lái buôn bất động sản thay vì vải giả da; rồi cái mẩu của Ahmed mà Amina không thể nào yêu. Để hiểu được chỉ một cuộc đời thôi, quý vị sẽ phải nuốt cả thế giới. Tôi đã bảo rồi.
Rồi ngư dân, rồi Catharine xứ Braganza, rồi Mumbadevi dừa gạo; tượng Shiva và điền trang của Methwold; một cái bể bơi hình Ấn Độ thuộc Anh và ngọn đồi cao bằng tòa nhà hai tầng; một cái ngôi giữa và một cái mũi thừa kế từ Bergerac; một ngọn tháp đồng hồ không hoạt động và một vòng xuyến nhỏ; nỗi thèm khát một ẩn dụ Ấn Độ ở một người Anh và hành động quyến rũ vợ một nghệ sĩ phong cầm. Vẹt đuôi dài, quạt trần, Thời báo Ấn Độ đều là một phần của hành trang tôi mang vào đời... vậy quý vị có lấy làm lạ rằng tôi là một thằng bé nặng không? Jesus da xanh rỉ vào tôi; và nỗi tuyệt vọng của Mary, và dã tính cách mạng của Joseph, và sự nhẹ dạ của Alice Pereira... tất cả đều tạo ra tôi.
Nếu tôi có vẻ hơi kỳ dị, hãy nhớ tới sự phong phú điên rồ của di sản của tôi… có lẽ, nếu muốn giữ mình là một cá nhân giữa đám đông lúc nhúc, người ta phải tự biến mình thành dị dạng..
“Rốt cuộc,” Padma nói với vẻ thỏa mãn, “anh đã học được cách kể chuyện thực nhanh rồi đấy.”
13 tháng Tám, 1947: bất hòa trên thiên giới. Sao Mộc, sao Thổ và sao sao Kim đang kỳ xung khắc; chưa hết, ba ngôi xung tinh này đang di chuyển vào cung hãm nhất. Các nhà chiêm tinh thành Benares gọi tên nó đầy sợ hãi: “Karamstan! Chúng đi vào Karamstan!”
Trong khi các nhà chiêm tinh đưa ra những thông báo hoảng loạn cho các thủ lĩnh đảng Quốc đại, mẹ tôi ngả mình ngủ trưa. Trong khi Bá tước Mountbatten hối tiếc vì Ban Tham muu của mình thiếu những chuyên gia thần bí học, cái bóng quay chầm chậm của một chiếc quạt trần ru Amina vào giấc ngủ. Trong khi M.A. Jinnah, yên trí rằng Pakistan của mình sẽ ra đời sau chỉ mười một tiếng nữa, tròn một ngày trước Ấn Độ độc lập, vốn còn tận ba mươi lăm tiếng, đang giễu cợt những lời phản đối của các ông thầy tử vi, lắc đầu với vẻ khoái trá, đầu Amina cũng đang quay qua quay lại.
Nhưng bà đang ngủ. Và suốt những ngày mang thai nặng như đeo đá ấy, một giấc mơ kỳ quái về giấy bẫy ruồi không ngừng ám ảnh giờ ngủ của bà... trong đó, lúc này, như mọi lần, bà đang lang thang trong một quả cầu thủy tinh đầy những dải giấy nâu dính đu đưa, bám chặt vào quần áo bà và xé toạc chúng ra khi bà vấp lên vấp xuống giữa rừng giấy không thể xuyên thủng ấy; và giờ bà vật lộn, xé giấy, nhưng nó túm lấy bà, tới khi bà trần truồng, với đứa trẻ quẫy đạp trong bà, và đám xúc tu dài của giấy dính ruồi vươn ra chụp lấy cái bụng phập phồng của bà, giấy dính chặt vào tóc mũi răng vú đùi bà, và khi bà há miệng toan kêu thì một nùi giấy nâu dính chẹn ngang đôi môi vừa hé mở.
“Amina Begum!” Musa gọi. “Dậy đi! Ác mộng, Begum Sahiba!”
Những sự kiện của vài tiếng cuối cùng ấy - chỗ cặn cuối cùng trong di sản của tôi: khi còn ba mươi lăm tiếng nữa, mẹ tôi mơ thấy bà bị dính vào thứ giấy nâu như một con ruồi. Và vào giờ cocktail (ba mươi tiếng nữa) Wiiliam Methwold đến thăm cha tôi ở khu vườn của Biệt thự Buckingham. Ngôi giữa sải bước bên cạnh và bên trên ngón cái, Ngài Mechwold hồi tưởng lại. Những câu chuyện về Methwold đầu tiên, người đã mơ thành phố này thành hiện thực, lấp đầy bầu không khí buổi tối trong ánh hoàng hôn sau chót ấy. Và cha tôi - bập bẹ giọng Oxford lè nhè, nóng lòng gây ấn tượng với tay người Anh sắp ra đi - bèn đáp, “Thật ra, nhà tôi cũng là một dòng họ khá danh giá. ông bạn già ạ.” Methwold lắng nghe: đầu ngửa lên, hoa hồng đỏ nơi ve áo màu kem, mũ rộng vành che mái tóc rẽ ngôi, một tia thích thú kín đáo trong mắt... Ahmed Sinai, được whisky bôi trơn, bị sự ngạo mạn thôi thúc, hào hứng tiếp tục đề tài ấy. “Dòng dõi Mughal, thực tế là vậy.” Thế là Methwold, “Không! Thật à? Ông bỡn tôi chứ hả?”Và Ahmed, đã trót đi quá xa, đành phải tiếp tục. “Ngoại hôn, tất nhiên; nhưng Mughal, chắc chắn đấy.”
Đó là chuyện, ba mươi tiếng trước khi tôi ra đời, cha tôi đã cho thấy ông cũng khát khao những tổ tiên hư cấu ra sao... ông đã đi đến chỗ sáng chế ra một cây phả hệ mà, nhiều năm sau đó, khi whisky đã xóa mờ ký ức và những chai-tửu-tinh làm ông lẫn lộn, sẽ xóa sạch đi mọi vết tích của hiện thực ra sao... và, để gia cố cho luận điểm của mình, ông đã mang vào đời chúng tôi ý tưởng về lời nguyền của dòng họ như thế nào.
“Chính thế,” cha tôi nói khi Methwold ngửa mái đầu u ám không cười, “nhiều gia tộc lâu đời có những lời nguyền như thế. Trong dòng họ nhà tôi nó được truyền từ con trai cả cho con trai cả - chỉ bằng chữ viết, bởi nói ra không thôi cũng đủ giải phóng quyền năng của nó, ông biết đấy.” Và giờ Methwold: “Hay thật! Và ông biết những lời ấy?” Cha tôi gật đầu, môi trề ra, ngón chân bất động khi ông gõ trán để nhấn mạnh. “Ở đây cả; nhớ nằm lòng hết. Chưa có ai động đến từ khi một cụ tổ cãi lộn với Hoàng đế Babar và buông lời nguyền lên chính con trai mình Humayun... câu chuyện kinh khủng, mà... bọn học trò ai cũng biết.”
Và rồi sẽ đến lúc cha tôi, vật lộn trong sự lẩn tránh tuyệt đối khỏi hiện thực, tự nhốt mình trong một căn phòng màu xanh và cố nhớ lại một lời nguyền ông đã mơ ra vào một buổi tối trong vườn nhà mình khi ông đứng gõ tay lên thái dương cạnh hậu duệ của William Methwold.
Giờ đây, bị trói cùng những giấc mơ về giấy bẫy ruồi và các tổ tiên tưởng tượng, tôi vẫn còn hơn một ngày nữa mới ra đời... nhưng giờ tiếng tích tắc lạnh lẽo kia tái lập vị thế của mình: còn hai mươi chín tiếng, hai mươi tám, hai mươi bảy...
Còn những giấc mơ nào được mơ vào cái đêm cuối cùng ấy? Có phải là - phải rồi, sao lại không? - Bác sĩ Narlikar, không hề biết về tấn kịch sắp xảy ra ở Nhà Hộ sinh của mình, đã lần đầu tiên mơ về tetrapod? Có phải vào cái đêm cuối cùng ấy, trong khi Pakistan đang ra đời ở phía Bắc và Tây của Bombay - cậu Hanif tôi, người đã chuyển (giống chị mình) đến Bombay, và đem lòng yêu một nữ diễn viên, nàng Pia thần thánh (“Gia tài của nàng là gương mặt!” tờ Illustrated Weekly từng viết), lần đầu tiên tưởng tượng ra cái thiết bị điện ảnh rồi sẽ sớm mang đến cho ông bộ phim đầu tiên trong ba phim bom tấn của ông?... Có vẻ lắm; thần thoại, ác mộng, truyền kỳ đều có trong không khí. Có điều này là chắc chắn: vào cái đêm cuối cùng ấy, ông tôi Aadam Aziz, giờ còn lại một mình ở ngôi nhà cổ lớn trên đường Cornwallis - ngoại trừ bà vợ mà sức mạnh ý chí dường như tăng lên trong khi Aziz kiệt quệ đi vì tuổi tác, và một cô con gái, Alia, mà sự đồng trinh cay đắng sẽ kéo dài đến ngày một quả bom chẻ bà làm đôi mười tám năm sau đó - bỗng nhiên bị giam cầm trong những đai kim loại khổng lồ của hoài niệm, và nằm thao thức khi chúng đè siết lên ngực ông; đến khi cuối cùng, vào năm giờ sáng 14 tháng Tám - còn mười chín tiếng nữa - ông bị một sức mạnh vô hình đẩy khỏi giường và kéo tới trước một cái thùng tôn cũ. Mở nó ra, ông thấy: những tạp chí tiếng Đức cũ; cuốn Làm gì? của Lenin; một tấm thảm cầu nguyện được gấp lại; và cuối cùng là thứ mà ông vừa cảm thấy một nỗi thôi thúc không cưỡng nổi phải nhìn lần nữa - trắng, được gấp lại và tỏa sáng yếu ớt dưới ánh bình minh - ông tôi lấy ra, từ chiếc thùng tôn của quá khứ, một tấm ga giường ố bẩn và khoét lỗ, và phát hiện thấy cái lỗ đã to ra; thấy có những lỗ khác, nhỏ hơn trên mặt vải xung quanh; và bị bóp nghẹt trong cơn thịnh nộ điên cuồng của niềm hoài nhớ ông lay vợ dậy và làm bà sửng sốt khi ông vừa quát lên vừa vung vẩy lịch sử của bà trước mũi bà:
“Nhậy cắn! Nhìn xem, Begum: nhậy cắn! Bà quên không bỏ băng phiến rồi!”
Nhưng giờ tiếng đếm ngược không chối bỏ được nữa... mười tám tiếng; mười bảy; mười sáu... và tại Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar, đã có thể nghe thấy tiếng thét của một phụ nữ đang đau đẻ. Wee Willie Winkie đang ở đây; với vợ anh Vanita; cô ở trong tình trạng đau đẻ kéo dài, không có kết quả đã tám tiếng đồng hồ. Cơn đau đầu tiên nhói lên đúng lúc, cách đấy hàng trăm cây số, M.A. Jinnah tuyên bố sự ra đời vào nửa đêm của một quốc gia Hồi giáo... nhưng cô vẫn quằn quại trên một cái giường trong “buồng từ thiện” của Nhà Narlikar (dành riêng cho con nhà nghèo)... mắt cô lồi phân nửa ra khỏi đầu; người cô bóng nhẫy mồ hôi, nhưng đứa bé không tỏ vẻ gì là sắp chui ra, và bố nó cũng không có mặt; lúc này là tám giờ sáng, nhưng, theo tình hình này, vẫn có khả năng là đứa bé đang chờ đến nửa đêm.
Tin đồn trong thành phố: “Đêm qua bức tượng lại phi!”… “Và các tinh tú đang không thuận!”... Nhưng bất chấp những điềm chẳng lành này, thành phố vẫn bình thản, với một huyền sử mới lóe lên nơi khóe mắt, Tháng Tám ở Bombay: tháng của hội hè, tháng của sinh nhật Krishna và Ngày Dừa: riêng năm nay - mười bốn tiếng nữa, mười ba, mười hai - trên lịch còn có thêm một ngày lễ nữa, một huyền sử mới để ăn mừng, vì một đất nước trước đây chưa từng tồn tại sắp sửa giành được tự do, phóng chúng ta vào một thế giới mà dù có năm ngàn năm lịch sử, dù đã phát minh ra cờ vua và thông thương với Ai Cập thời Trung đế chế[2], vẫn chỉ hoàn toàn là tưởng tượng vào một xứ sở huyền bí, một đất nước sẽ chẳng bao giờ tồn tại nếu không có những nỗ lực của một ý chí tập thể phi thường - nếu không phải trong một giấc mơ mà chúng ta đều sẵn lòng mơ; đó là một ảo tưởng tập thể được chia sẻ từ nhiều góc độ giữa người Bengal và Punjab, Madras và Jat, và theo định kỳ sẽ cần được thánh hóa và tái sinh, điều chỉ có thể thực hiện được bằng những nghi lễ của máu. Ấn Độ, huyền sử mới - một tiểu thuyết tập thể mà trong đó mọi thứ đều là có thể, một ngụ ngôn mà chỉ hai huyền thoại vĩ đại khác mới xứng là đối thủ: tiền và Chúa.
[2] Nguyên tác: Middle Kingdom Egypt, vương quốc Ai Cập thời kỳ 2080-1640 trước Công nguyên.
Tôi đã là, trong thời của tôi, bằng chứng sống cho bản chất hoang đường của giấc mơ tập thể này; nhưng tạm thời, tôi phải chia tay với những ý tưởng khái quát, vĩ mô này để tập trung vào một nghi lễ riêng tư hơn; tôi sẽ không miêu tả những vụ đổ máu tập thể đang diễn ra ở biên giới tỉnh Punjab bị tách (nơi những quốc gia bị chia cắt đang tắm mình trong máu của nhau, và một tay Thiếu tá Zulfikar mặt hề Punchinello[3] đang mua lại điền sản của dân tị nạn với giá thấp đến lố bịch, đặt nền tảng cho một gia tài sẽ cạnh tranh được với Thủ hiến bang Hyderabad); tôi sẽ ngoảnh mặt không nhìn cảnh lực ở Bengal và cuộc đi bộ dài vì hòa bình của Mahatma Gandhi. Ích kỷ? Đầu óc hẹp hòi? À, có thể; nhưng theo ý tôi thì có thể thông cảm được. Nói cho cùng, ai cũng chỉ sinh ra có một lần.
[3] Nhân vật trong hài kịch dân gian của Ý, có cái mũi khoằm và nhọn.
Còn mười hai tiếng nữa. Amina Sinai, vừa tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng giấy bẫy ruồi, sẽ không ngủ lại cho đến sau... Ramram Seth đang choán hết đầu bà, bà đang lênh đênh giữa một vùng biển động nơi những con sóng của niềm háo hức xen lẫn với những hố thẳm đen ngòm, váng vất, đẫm nước của nỗi sợ hãi. Nhưng còn gì đó khác cũng đang hoạt động. Hãy nhìn tay bà - khi, không hề có chỉ dẫn của ý thức, chúng ấn mạnh lên bụng bà; hãy nhìn môi bà, mấp máy mà bà không hề biết, “Nào, rùa con, con không muốn bị hụt lên báo chứ!”
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian